Giữa những cánh rừng trải dài của thôn Mâng, xã Bằng Hành, trang trại của ông Lê Văn Bẩy hiện lên như minh chứng rõ nét cho giá trị của nghề rừng. Hơn một thập kỷ trước, khi quyết định gắn bó với vùng đất này, ông dồn toàn bộ vốn liếng để mua đất, tự mình khai phá từng khoảnh đồi và trồng các loại cây lâm nghiệp như keo, bồ đề, quế.
Từ những quả đồi trọc năm nào giờ đã được phủ kín bởi màu xanh bạt ngàn của các loại cây lâm nghiệp. Gia đình ông Bẩy hiện có 20 ha rừng cây gỗ lớn và hơn 300 ha liên kết trồng rừng tại các xã lân cận, mang lại doanh thu hàng trăm triệu đồng mỗi năm. Đây chính là thành quả của sự kiên trì, nỗ lực và niềm tin vào nghề rừng trên quê hương Bằng Hành.

Rừng keo đang trong giai đoạn phát triển, hứa hẹn nguồn thu ổn định cho gia đình ông Lê Văn Bẩy.
Việc điều chỉnh linh hoạt các chính sách khuyến khích và khéo léo lồng ghép nhiều nguồn vốn hỗ trợ trồng rừng đã tạo động lực lớn cho người dân. Nếu trước đây bà con trồng rừng vì yêu cầu nhiệm vụ, thì nay họ chủ động lựa chọn nghề rừng như một cách làm kinh tế hiệu quả.
Tại nhiều xã vùng núi và thung lũng ven sông Lô, hễ còn mảnh đất trống là người dân lại tính chuyện xuống giống. Không ít nơi, rừng đã được trồng đến chu kỳ thứ ba, thứ tư, đem lại nguồn thu cao và ổn định, góp phần nâng chất lượng đời sống cho người dân địa phương.

Người dân chăm sóc rừng trồng, đảm bảo cây phát triển khỏe mạnh và nâng cao giá trị kinh tế.
Song song với việc trồng rừng và bảo vệ rừng, người dân các xã như: Đồng Tâm, Tân Quang, Bắc Quang, Đồng Yên, Vĩnh Tuy, Hùng An, Bằng Hành và Liên Hiệp còn tập trung nâng cao chất lượng rừng. Riêng tại 8 xã này, gần 3.000 ha rừng đã được cấp chứng nhận quản lý rừng bền vững FSC, tạo tiền đề quan trọng cho việc phát triển lâm nghiệp theo hướng lâu dài.
Các địa phương cũng triển khai hiệu quả công tác giao khoán và hỗ trợ bảo vệ rừng, đồng thời chủ động huy động các nguồn lực từ nhiều phía để tạo sinh kế bền vững cho người dân sống gần rừng. Ngoài phát triển du lịch sinh thái và trồng dược liệu dưới tán cây, một số địa phương còn khuyến khích nuôi ong lấy mật, chăn nuôi gia súc dưới tán rừng, trồng cây ăn quả kết hợp với rừng… Nhờ những mô hình này, giá trị kinh tế từ rừng không ngừng tăng lên, giúp người dân có thêm thu nhập ổn định quanh năm. Đồng thời, các hoạt động này tạo thêm việc làm tại chỗ, góp phần giảm di cư lao động, ổn định đời sống, đồng thời nâng cao ý thức bảo vệ rừng và gìn giữ môi trường sinh thái bền vững cho cộng đồng.

Một góc rừng trồng cây xanh bạt ngàn tại khu vực vùng núi và thung lũng ven sông Lô.
Theo lãnh đạo UBND xã Liên Hiệp, những năm gần đây, người dân trong xã đã thay đổi rõ rệt tư duy làm kinh tế rừng. Bà con chủ động hơn trong việc lựa chọn giống, trồng rừng gỗ lớn và chăm sóc theo quy trình bài bản nhằm nâng cao chất lượng rừng. Nhờ đó, diện tích rừng không chỉ phát triển về số lượng mà còn gia tăng giá trị kinh tế, góp phần cải thiện đời sống và tạo sinh kế ổn định cho người dân địa phương.
Từ chủ trương xã hội hóa nghề rừng và quan điểm coi trọng chức năng phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái gắn liền với phát triển kinh tế, nhiều địa phương vùng núi và thung lũng ven sông Lô đã tìm được hướng đi phù hợp cho mình. Khi người dân được tiếp cận chính sách, được hỗ trợ kỹ thuật và nhìn thấy lợi ích rõ ràng từ những cánh rừng xanh, phong trào làm giàu từ kinh tế rừng đã trở thành xu hướng phổ biến, lan tỏa rộng khắp.
Ở những nơi từng là đồi trọc, đất bạc màu, nay lớp lớp cây xanh phủ kín. Mỗi ha rừng là một nguồn thu ổn định; mỗi quả đồi được trồng mới là một khoản tích lũy cho tương lai. Những cánh rừng không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn giúp giữ nước, giữ đất, điều hòa khí hậu, tạo môi trường để phát triển các mô hình khác như chăn nuôi dưới tán rừng, trồng dược liệu, hay du lịch sinh thái.
Nhờ vậy, nghề rừng đã và đang biến những miền đất hoang hóa của vùng núi và thung lũng ven sông Lô thành những “kho tiền” sinh lợi, góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống và tạo động lực phát triển bền vững cho cộng đồng địa phương.
Biên tập viên Cổng TTĐT tỉnh
